Sắc tố là gì? Các công bố khoa học về Sắc tố
Sắc tố là một chất phân tử hoặc hạt có khả năng hấp thụ ánh sáng và phản chiếu hoặc truyền qua nó. Nhờ đó, sắc tố tạo nên màu sắc trong các hệ thống sinh học và...
Sắc tố là một chất phân tử hoặc hạt có khả năng hấp thụ ánh sáng và phản chiếu hoặc truyền qua nó. Nhờ đó, sắc tố tạo nên màu sắc trong các hệ thống sinh học và hóa học. Các loại sắc tố phổ biến bao gồm sắc tố thực vật (như chlorophyll), sắc tố động vật (như hemoglobin), sắc tố màu trong thực phẩm và sắc tố công nghiệp (như thuốc nhuộm).
Sắc tố là một loại chất có khả năng hấp thụ ánh sáng và phản chiếu hoặc truyền qua nó. Sắc tố được tìm thấy ở nhiều hệ thống sinh học và hóa học khác nhau.
Trong hệ thống sinh học, sắc tố thực vật chủ yếu là chlorophyll, là chất chịu trách nhiệm cho quá trình quang hợp trong cây cỏ. Chlorophyll hấp thụ ánh sáng màu đỏ và màu xanh dương và phản chiếu màu xanh lá cây. Điều này cho phép cây cỏ hấp thụ năng lượng từ ánh sáng mặt trời để phục vụ cho quá trình tổng hợp thức ăn.
Sắc tố động vật quan trọng nhất là hemoglobin, chịu trách nhiệm cho sự vận chuyển oxy trong máu của động vật. Hemoglobin có khả năng hấp thụ ánh sáng màu đỏ và phản chiếu ánh sáng màu xanh. Điều này giải thích tại sao máu có màu đỏ khi nó bị chiếu sáng.
Trong thực phẩm, sắc tố được sử dụng để tạo màu và hương vị. Ví dụ, carotenoid là một nhóm sắc tố có màu vàng và cam thường được tìm thấy trong cà rốt và ớt. Anthocyanin là sắc tố tạo ra màu đỏ, tím và xanh của các loại trái cây và hoa. Sắc tố như thuốc nhuộm cũng được sử dụng để tạo màu trong các sản phẩm công nghiệp.
Sắc tố có vai trò quan trọng trong việc tạo nên màu sắc và đặc điểm riêng của nhiều hệ thống sinh học và hóa học. Ngoài ra, sắc tố còn được nghiên cứu và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, như khoa học môi trường, dược phẩm, thực phẩm và nghệ thuật.
Sắc tố được tạo ra từ các hợp chất hóa học có khả năng hấp thụ ánh sáng và tương tác với nó. Cấu trúc hóa học của sắc tố quyết định các cấu trúc electron trong phân tử, từ đó xác định phổ hấp thụ và phát xạ ánh sáng.
Có nhiều loại sắc tố khác nhau được tìm thấy trong tự nhiên và được sử dụng trong các ứng dụng khác nhau. Một số loại sắc tố phổ biến bao gồm:
1. Sắc tố thực vật: Chlorophyll là sắc tố quan trọng trong quá trình quang hợp của thực vật. Chlorophyll absorb ánh sáng màu xanh (khu vực 430-680 nm) và phản chiếu ánh sáng màu xanh lá cây. Nó có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi năng lượng ánh sáng thành năng lượng hóa học trong quá trình quang hợp.
2. Sắc tố động vật: Hemoglobin là sắc tố quan trọng trong máu của động vật có xương sống. Nó có khả năng hấp thụ ánh sáng màu đỏ (khu vực khoảng 400-700 nm), cho máu màu đỏ. Hemoglobin gắn oxy và CO2 và làm nhiệm vụ vận chuyển oxy và loại bỏ CO2 trong cơ thể.
3. Sắc tố thức ăn: Có nhiều sắc tố thiên nhiên trong các loại thực phẩm, chẳng hạn như carotenoid và anthocyanin. Carotenoid là một nhóm sắc tố có màu vàng, cam và đỏ, thường có mặt trong các loại quả và rau. Anthocyanin tạo ra các màu sắc đỏ, tím và xanh trong các loại trái cây, hoa và lá.
4. Sắc tố công nghiệp: Các sắc tố như thuốc nhuộm được sử dụng trong công nghiệp để tạo màu cho sản phẩm. Các sắc tố này được tổng hợp hoặc chiết xuất từ các nguồn tự nhiên hoặc tổng hợp từ hợp chất hóa học. Chúng có thể được sử dụng trong mỹ phẩm, thuốc nhuộm vải, mực in và nhiều ứng dụng khác.
Sắc tố cũng có thể được thay đổi bằng các quá trình hóa học và vật lý. Ví dụ, tạo nên sắc thái khác nhau của màu sắc bằng cách thay đổi pH, nhiệt độ, áp suất, ánh sáng và các yếu tố khác. Sự tương tác giữa các sắc tố khác nhau cũng có thể tạo ra sự biến đổi màu sắc phức tạp và hấp dẫn.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sắc tố":
Hai biến dễ đo lường, kích thước và tỷ lệ giá trị sổ sách, kết hợp lại để nắm bắt sự biến đổi trong bức tranh tổng thể về tỷ suất sinh lời trung bình của cổ phiếu liên quan đến
Tiến hành một đánh giá về văn liệu là một phần quan trọng của bất kỳ dự án nghiên cứu nào. Nhà nghiên cứu có thể xác định và đánh giá lãnh thổ tri thức liên quan để chỉ định một câu hỏi nghiên cứu nhằm phát triển thêm cơ sở tri thức. Tuy nhiên, các bản đánh giá 'mô tả' truyền thống thường thiếu tính toàn diện, và trong nhiều trường hợp, không được thực hiện như những mảnh ghép đích thực của khoa học điều tra. Do đó, chúng có thể thiếu phương tiện để hiểu những gì tập hợp các nghiên cứu đang nói. Những đánh giá này có thể bị nghiên cứu viên thiên vị và thường thiếu đi tính chặt chẽ. Hơn nữa, việc sử dụng các đánh giá về bằng chứng sẵn có để cung cấp cái nhìn sâu sắc và hướng dẫn cho can thiệp vào nhu cầu hoạt động của người thực hành và nhà làm chính sách chủ yếu là yếu tố thứ cấp. Đối với người thực hành, việc hiểu một khối chứng cứ thường mang tính mâu thuẫn đã trở nên ngày càng khó khăn hơn. Chất lượng của bằng chứng hỗ trợ việc ra quyết định và hành động đã bị đặt dấu hỏi, vì bằng chứng không đầy đủ hoặc hoàn chỉnh nghiêm trọng cản trở việc hình thành và thực thi chính sách. Khi nghiên cứu các cách mà các đánh giá quản lý dựa trên bằng chứng có thể đạt được, các tác giả đánh giá quy trình đánh giá hệ thống được sử dụng trong khoa học y học. Trong 15 năm qua, khoa học y học đã cố gắng cải thiện quy trình đánh giá bằng cách tổng hợp nghiên cứu một cách hệ thống, minh bạch và tái sản xuất với cả hai mục tiêu nâng cao cơ sở tri thức và thông tin hoá việc ra quyết định chính sách và thực hành. Bài báo này đánh giá mức độ mà quy trình đánh giá hệ thống có thể được áp dụng cho lĩnh vực quản lý nhằm tạo ra một khối dự trữ tri thức đáng tin cậy và nâng cao thực hành bằng cách phát triển nghiên cứu nhạy cảm với bối cảnh. Bài viết nêu bật các thách thức trong việc phát triển một phương pháp luận thích hợp.
Một loạt vector chuyển nấm men và chủng đã được tạo ra nhằm cho phép thao tác DNA hiệu quả hơn trong Saccharomyces cerevisiae. Các vector thay thế đã được xây dựng và sử dụng để tạo ra các chủng nấm men chứa các đột biến không chuyển đổi his3, trp1, leu2 và ura3. Một bộ vector YCp và YIp (dòng pRS) sau đó được thực hiện dựa trên nền của plasmid đa mục đích pBLUESCRIPT. Các vector pRS này có cấu trúc đồng nhất và chỉ khác nhau ở gen chọn lọc của nấm men được sử dụng (HIS3, TRP1, LEU2 và URA3). Chúng sở hữu tất cả các đặc điểm của pBLUESCRIPT và một số đặc tính cụ thể của nấm men. Sử dụng vector pRS, người ta có thể thực hiện hầu hết các thao tác DNA tiêu chuẩn trong cùng một plasmid đã được đưa vào nấm men.
Việc phân tích toàn hệ thống các gen và protein trong tế bào động vật có vú tạo ra danh sách các gen/protein biểu hiện khác nhau cần được phân tích thêm về chức năng tổng hợp của chúng để rút ra kiến thức mới. Khi đã tạo ra danh sách các gen hoặc protein không thiên lệch từ các thí nghiệm như vậy, những danh sách này được sử dụng làm đầu vào để tính toán sự làm giàu với các danh sách hiện có được tạo ra từ kiến thức trước đó tổ chức thành các thư viện gen-set. Trong khi nhiều công cụ phân tích làm giàu và cách thức lưu trữ thư viện gen-set đã được phát triển, vẫn còn nhiều cơ hội để cải thiện.
Bệnh tiểu đường và béo phì là hai bệnh trao đổi chất đặc trưng bởi kháng insulin và viêm mức độ thấp. Khi tìm kiếm yếu tố viêm dẫn đến khởi phát kháng insulin, béo phì và tiểu đường, chúng tôi đã xác định được lipopolysaccharide (LPS) từ vi khuẩn là yếu tố gây khởi phát. Chúng tôi phát hiện rằng tình trạng nội độc tố bình thường tăng hoặc giảm trong trạng thái ăn no hoặc nhịn ăn, theo cơ sở dinh dưỡng và một chế độ ăn giàu chất béo kéo dài 4 tuần đã làm tăng nồng độ LPS trong huyết tương từ hai đến ba lần, ngưỡng mà chúng tôi đã định nghĩa là nội độc tố chuyển hóa. Quan trọng là, chế độ ăn giàu chất béo làm tăng tỷ lệ vi khuẩn chứa LPS trong ruột. Khi nội độc tố chuyển hóa được gây ra trong 4 tuần ở chuột thông qua việc truyền LPS liên tục dưới da, đường huyết và insulin lúc đói cùng với sự tăng cân toàn thân, gan và mô mỡ tăng lên ở mức tương tự như ở chuột ăn chế độ giàu chất béo. Ngoài ra, các tế bào dương tính F4/80 trong mô mỡ và các chỉ số viêm nhiễm, lượng triglyceride trong gan cũng tăng. Hơn nữa, tình trạng kháng insulin ở gan, nhưng không phải toàn thân, được phát hiện ở chuột truyền LPS. Chuột đột biến CD14 chống lại phần lớn các đặc điểm do LPS và chế độ ăn giàu chất béo gây ra của các bệnh chuyển hóa. Phát hiện mới này chứng minh rằng nội độc tố chuyển hóa làm rối loạn mức độ viêm và kích hoạt tăng cân và tiểu đường. Chúng tôi kết luận rằng hệ thống LPS/CD14 điều chỉnh độ nhạy insulin và khởi đầu bệnh tiểu đường và béo phì. Giảm nồng độ LPS trong huyết tương có thể là chiến lược mạnh để kiểm soát các bệnh chuyển hóa.
Chúng tôi đã tìm cách tạo ra một danh mục đầy đủ các gen của nấm men có mức độ phiên mã thay đổi theo chu kỳ trong chu kỳ tế bào. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi sử dụng microarray DNA và các mẫu từ các nền nuôi cấy nấm men được đồng bộ hóa bằng ba phương pháp độc lập: dừng bằng yếu tố α, phương pháp tách lọc, và dừng đồng bộ một đột biến nhạy với nhiệt độ cdc15. Sử dụng các thuật toán chu kỳ và tương quan, chúng tôi đã xác định 800 gen đáp ứng tiêu chí tối thiểu khách quan về điều hòa chu kỳ tế bào. Trong các thí nghiệm riêng biệt, được thiết kế để kiểm tra tác dụng của việc kích thích cyclin G1 Cln3p hoặc cyclin loại B Clb2p, chúng tôi phát hiện ra rằng mức mRNA của hơn một nửa số gen này phản ứng với một hoặc cả hai loại cyclin này. Hơn nữa, chúng tôi đã phân tích tập hợp gen điều hòa chu kỳ tế bào của mình để tìm các phần tử khởi động đã biết và mới và cho thấy rằng nhiều phần tử được biết đến (hoặc biến thể của chúng) chứa thông tin dự đoán về điều hòa chu kỳ tế bào. Mô tả đầy đủ và tập dữ liệu hoàn chỉnh có sẵn tại http://cellcycle-www.stanford.edu
Bạch cầu phản ứng với lipopolysaccharide (LPS) ở nồng độ nano gram trên mililit bằng cách tiết ra cytokine như yếu tố hoại tử khối u-α (TNF-α). Tiết ra quá mức TNF-α gây sốc nội độc tố, một biến chứng nhiễm trùng có khả năng gây tử vong lớn. LPS trong máu nhanh chóng liên kết với protein huyết thanh, protein liên kết lipopolysaccharide (LBP) và các phản ứng tế bào với mức độ LPS sinh lý phụ thuộc vào LBP. CD14, một kháng nguyên biệt hóa của bạch cầu đơn nhân, đã được phát hiện liên kết với các phức hợp LPS và LBP, và việc chặn CD14 bằng kháng thể đơn dòng đã ngăn cản việc tổng hợp TNF-α bởi máu toàn thể được ủ với LPS. Do đó, LPS có thể kích thích các phản ứng bằng cách tương tác với một protein liên kết hòa tan trong huyết thanh, sau đó liên kết với protein bề mặt tế bào CD14.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10